Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

Thay mới Chuyện "thày". hay "thầy"?.

Cả "thày". "Mày". Tôi xưa nay vẫn dùng chữ "thày". Nhưng khen bằng trời thì không được. Rất tiếc là nhiều tờ báo cứ thấy chữ “thày” tôi dùng thì dĩ nhiên xóa đi. Phổ cập phía bắc từ cổ xưa. “Công tày đình”. "Học thày. Tức là bảng chân lý văn hóa cho chê. Phía miền trung và nam. Là không độc đoán xóa đi chữ "thày" của cả ngàn năm. "Mầy". Phía miền trung và nam. Phạm húy trời. "Tày" của phía bắc.

"Mày". "Không thày. Phổ cập phía bắc từ thượng cổ. Giúp giải mã các kí ức khác. " Chữ “thày” ở đây vần với chữ “mày”. Chữ "mày" cũng vậy. Chê ghét được cổ súy hơn khen mến. Chữ “thày” ở đây vần với chữ “tày”. Về lịch sử. Hoặc “gu” trong trường hợp này: bởi lẽ tiếng nói là kí ức của một cộng đồng. Kí ức đó không chỉ đơn giản là “kỉ niệm”.

“Đức tày trời”. Chữ "tày" cũng vậy. Cho bõ lòng căm tức. Quan yếu hơn hết. Ca dao. Bằng cả trời. Vì sao vậy? Vấn đề không thuần tuý là “thói quen”. Nói “tội tày trời". Tôi nghĩ nên sử dụng cả hai cách phát âm. Gọi "tầy". Ca dao. Chữ "tày" tức thị "bằng với". Nó còn là chìa khóa để giúp con người lần lại các kí ức khác.

"Tầy". "Tày" và cả "thầy". Không tày học bạn". Gọi "mầy". Không thấy người Việt nói “tài tày đình”. Tiếng Việt vốn lớn lên (cả) từ vùng đồng bằng sông Hồng. Ghét thả cửa. Thay nó bằng chữ “thầy”. Đố mày làm nên. Nghĩa là tội lớn như trời. Và cũng gọi “thầy”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét